Pinacogram - Tính biểu tượng khắc họa bằng ngôn ngữ tự họa
Pinacogram có thể hiểu là sự sắp đặt ngôn ngữ để tạo thành bức tranh tự họa theo khía cạnh mỹ thuật và tạo thành biểu tượng theo khía cạnh biểu tượng học. Pinacogram là một nét khá mới mẻ trong hệ thống biểu tượng ngôn ngữ cũng như biểu quát các giá trị mỹ học. Pinacogram khám phá những nét tinh tế trong việc sắp đặt ngôn ngữ để tạo ra tác phẩm mang tính biểu trưng và thần mỹ cao cả.
Pinacogram khác Ambigram ở tính nghệ thuật và khắc họa, nếu như Ambigram đơn thuần là tạo chuỗi ngôn ngữ thì Pinacogram gồm cả phương thức tạo chuỗi và tính hiển thị. Rõ ràng Pinacogram là một mức cao hơn của Ambigram về mức độ biểu thị và tượng trưng. Pinacogram cho con người cảm nhận riêng biệt về tính ẩn thị mỹ thuật tinh tế và riêng biệt.
Georges Perec
Eugène Ionesco
Gilles Esposito-Farèse
Albert Einstein
Tags:
Symbol
Ambigram - Nghệ thuật ngôn từ hay trò chơi ảo giác
Ambigram được hiểu là cách kết hợp ngôn ngữ để biến chuyển ngôn ngữ gốc hoặc tạo hình thái ngôn ngữ mới thông qua dạng biến chuyển. Nói cách khác, Ambigram là nghệ thuật của ngôn ngữ. Rất nhiều thắc mắc cho rằng, Ambigram là một "trò chơi" đảo ngôn, biến ngôn và vận dụng máy móc trong nhận thức như một ảo giác. Tuy nhiên, Ambigram không phải như vậy - tính nghệ thuật được ẩn dấu trong mỗi Ambigram là cả một công trình của trí tuệ thông qua tính chất đối ngẫu và biến chuyển hoàn hảo.
Vậy Ambigram vận dụng trong cuộc sống nhằm mục đích và có ý nghĩa như thế nào đến sự phát triển của tư duy con người trong hoạt động nhận thức và sáng tạo thế giới? Ambigram là sáng tạo vận động, bất kì một Ambigram nào cũng đều chứa đựng tính sáng tạo và lôi cuốn kì ảo. Bởi bàn tay và khối óc con người đã tạo nên chúng trên chính sự tư duy về phương thức biến đổi và ghép nối hoàn thiện ngôn từ, không chỉ vậy Ambigram đã tạo nên tính đa dạng và phong phú của ngôn ngữ.
Ambigram biến đổi nhiều cách thức cho thấy ngôn ngữ đều chứa đựng tính vận động đa chiều, bởi bất cứ một dạng ngôn ngữ cố hữu đều tạo được Ambigram trên chính nó và với nhiều hình thái khác nhau. Tính đối xứng là một yếu tố quan trọng và cố hữu trong phong cách Ambigram. Tuy nhiên, bằng sự sáng tạo và tư duy liên hoàn của bộ óc con người đã tạo nên các Ambigram theo dạng chuỗi bất tận cũng như các Ambigram biến đổi đa chiều để tạo nên các chuỗi vận động bất tận của ngôn ngữ. Chính vì vậy, Ambigram còn mang tính phản chiếu và nối tiếp đa hoàn. Ambigram là chuỗi sóng giao hoán của ngôn ngữ trên bàn tay nghệ thuật của con người! Đó chính là mục đích của những khối có thích nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện cái mới, cái tinh túy và cái tiềm ẩn trong ngôn ngữ.
Ambigram biến đổi nhiều cách thức cho thấy ngôn ngữ đều chứa đựng tính vận động đa chiều, bởi bất cứ một dạng ngôn ngữ cố hữu đều tạo được Ambigram trên chính nó và với nhiều hình thái khác nhau. Tính đối xứng là một yếu tố quan trọng và cố hữu trong phong cách Ambigram. Tuy nhiên, bằng sự sáng tạo và tư duy liên hoàn của bộ óc con người đã tạo nên các Ambigram theo dạng chuỗi bất tận cũng như các Ambigram biến đổi đa chiều để tạo nên các chuỗi vận động bất tận của ngôn ngữ. Chính vì vậy, Ambigram còn mang tính phản chiếu và nối tiếp đa hoàn. Ambigram là chuỗi sóng giao hoán của ngôn ngữ trên bàn tay nghệ thuật của con người! Đó chính là mục đích của những khối có thích nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện cái mới, cái tinh túy và cái tiềm ẩn trong ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là bất tận và Ambigram cũng vậy - Sự đa dạng không thể không khám phá và phát kiến những Ambigram mới lạ và ấn tượng. Rõ rãng Ambigram là tiếng nói trong trẻo và ngẫu hứng đầy sáng tạo của những khối óc tài hoa chứ không phải là trò chơi ảo giác đầy nghịch lí!
Tags:
Ambigram
Tính nữ thiêng liêng trong bức tranh "Bữa ăn cuối cùng" của Leonardo da Vinci
Bữa ăn tối cuối cùng hay Tiệc Ly là một sự kiện được mô tả trong trong Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, trong cách dùng thông thường là để chỉ bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê-su cùng Mười hai sứ đồ trước khi chết.
Bữa ăn tối cuối cùng (tiếng Ý: Il Cenacolo hay L'Ultima Cena; tiếng Anh: The Last Supper) là bức bích họa nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci. Tác phẩm được sáng tác vào khoảng năm 1495 đến 1498. Bức bích họa miêu tả trai phòng của Tu viện Santa Maria ở thành phố Milano.
Theo các sách phúc âm, bữa ăn tối cuối cùng là bữa ăn sau cùng Chúa Giê-xu chia sẻ với các môn đồ trước khi ngài chết.
Bức tranh của Vinci mô tả lại một phần truyền thuyết này: Judas - một trong số các môn đồ của Chúa Giêsu - tố giác với nhà cầm quyền La Mã để bán đứng người thầy của mình đổi lấy 30 thỏi bạc. Ở bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Jesus (ở chính giữa bức tranh), đang nói với các môn đồ: "Trong các người có kẻ muốn bán rẻ ta".
Bức The last supper (Bữa tối cuối cùng) làm cho người xem cảm nhận một ẩn dụ sâu sắc về thị giác, đồng thời cũng đề cập đến một khía cạnh oàn toàn mới của Kinh Tân Ước. Chúa ngồi ở giữa, tay trái đặt ngửa giữa bàn (tay của trái tim), tay phải lập sấp cùng lời người đã phán ra: "Ở trong số các người có một người sẽ phản ta. Người đó là ai?" Câu nói ấy của Chúa gây những phản ứng khác nhau trên từng khuôn mặt và hành động của các Thánh tông đồ, từ phải sang trái, từng nhóm ba người. Kinh ngạc, nghi ngờ, đau xót, căm giận. Mười hai môn đồ ngồi trong bàn ăn, mỗi người có một vẻ mặt khác nhau: ba người thì thầm bàn bạc; ba người tỏ vẻ giận dữ (trong đó có một người đập mạnh tay xuống bàn); một người lộ vẻ nghi ngờ; một người tỏ ra ngạc nhiên; một người ngồi ngay ngắn tỏ lòng trung thành; hai người nữa lộ vẻ xúc động. Chỉ có một môn đồ mặt tái nhợt, lưng hơi ngả về sau, tay nắm chặt túi tiền - đó chính là Judas. Sau lưng Judas là một khoảng tối, còn sau lưng chúa Jesus là hình ảnh cửa sổ đầy ánh sáng. Những tia sáng chiếu vào gương mặt Jesus làm ánh lên vẻ điềm tĩnh, hiền từ và cương nghị. Sự tương phản này được cho là biểu đạt được sự căm thù của tác giả đối với gian ác, cũng như sự ngưỡng vọng đối với chính nghĩa.
Luận giải tính nữ thiêng liêng trong bức tranh "Bữa ăn cuối cùng" của Leonardo da Vinci: Trong Kinh thánh, tất cả 12 môn đồ của Chúa là đàn ông. Trong bức tranh, có sự hiện diện của một người phụ nữ duy nhất ngồi bên tay phải của Chúa. Ít người phát hiện ra điều này là do hiện tượng “ám thị” khi bộ óc lấn át thị giác về việc “tất cả các vị tông đồ PHẢI là đàn ông”. Tuy nhiên, nếu nhìn kĩ môn đồ có vinh dự ngồi ngay cạnh phía bên phải của Chúa Jesus (vẫn thường được biết đến là John, Gioan hay Giăng) ta sẽ thấy, người này có khuôn mặt trắng trẻo và đôi bàn tay nhỏ nhắn chắp lại dịu dàng, mái tóc xõa bồng bềnh, chưa kể tới phần ngực có cao hơn một chút, như một người phụ nữ vậy. Đã có nhiều nghi ngờ Da Vinci đã "cố tình" vẽ môn đồ đó là phụ nữ? Vậy người phụ nữ này là ai? Và tại sao người phụ nữ này lại đại diện cho tính nữ thiêng liêng ẩn dấu trong tác phẩm "Bữa tiệc cuối cùng" của Vinci?
Người phụ nữ đó chính là Mary Magdalene - người vợ của Chúa Jesus. Điều này đã bị Giáo hội loại bỏ và gán ghép bà với phẩm hạnh không xứng đáng. Tuy nhiên lịch sử dường như chứng minh bà là người vợ thân thiết nhất và cũng là một trong những tín đồ trung thành, gần gũi nhất của Chúa Jesus. Trong các bản Phúc âm cổ xưa còn chép lại sự hiện diện của bà, bà là đại diện tiêu biểu của tính nữ cao cả trong Thiên Chúa. Theo suy luận đơn giản, bà là người được tin cậy nhất và luôn ở bên Chúa, tuy nhiên vào thời điểm lịch sử Chúa Jesus sống - người Do Thái bắt buộc phải có vợ nếu không sẽ phạm phải ý chỉ của Đấng tối cao là đi ngược lại với di chỉ của sinh tồn : Đó là duy trì tính huyết thống cao quý mà Chúa Jesus là người mang trong mình dòng máu Hoàng tộc. Vậy Mary Magdalene có phải là vợ của Jesus không? Khi Chúa Jesus bị hành hình thì người đau buồn và khóc nhiều nhất là thánh Mary, phải chăng chỉ có người thân yêu nhất của mình khi bị hành hình thì nỗi thống khổ ấy mới biểu hiện cho tình cảm của một người mẹ - một người vợ? Hãy xem xét trên góc độ hôn nhân tương xứng: Jesus là người mang dòng máu Hoàng tộc và điều phải làm là không trái lại quy ước của Đấng sáng tạo là phải có người để "nảy nở thực nhiều" là ngẫu nhiên, Mary Magdalene cũng mang trong mình dòng dõi quý tộc là hậu duệ của David - vậy tính tương xứng trong hôn phối không thế bàn luận. Nhưng tại sao bà lại không được Công giáo công nhận như một chủ thể tồn tại độc lập và có thật? Điều nãy rất dễ hiểu, về tính quảng bá và tuyết đối của sự hoàn hảo của Chúa Jesus nên Giáo hội đã triệt tiêu bà trên danh nghĩa thân phận "gái điếm" nhằm bôi nhọ và phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu thực sự của bà. Đó là một dối trá và phủ nhận lịch sử ghê ghớm mà Giáo hội đã hành động thành công!
Tuy nhiên, Mary Magdalene được tái hiện trong tâm thức và sự thực của quy luật tồn tại. Bà được Leonardo da Vinci đặc tả rất kĩ trong tác phẩm "Bữa tiệc cuối cùng" với vị trí là bên tay phải của Chúa Jesus với góc nghiêng tạo thành chữ V. Và chính chữ V này là biểu tượng ẩn dụ đầy tinh tế và mỉa mai của Vinci. Tinh tế ở chỗ, nó đã tạo nên một hình ảnh người nữ - tính nữ trong tác phẩm miêu tả, đề cao và được Công giáo công nhận. Mỉa mai cũng chính là sự đánh lừa trâng tráo và khéo léo của Vinci đối với sự khắt khe và tính bảo thủ che mờ lịch sử của Nhà thờ Công giáo. Chữ V ở đây được ví như bộ phận của người phụ nữ, nó là đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở. Vinci đã đề cao tính nữ thiêng liêng tài tình đến khó thể nhận biết.
Trong tác phẩm Mary Magdalene của Vinci ta sẽ thấy rõ điều này hơn, khi ông miêu tả Mary tai phải cầm "mảnh che mặt" trên khu vực sinh sản và tay trái cầm một mảnh vải đỏ - ý chỉ sự ra đi của tính nữ. Ở đây Vinci ám chỉ bà đang mang trong mình dòng máu của Chúa Jesus và sinh ra một người con gái tên là Sarah.
Vậy tính nữ thiêng liêng đã ẩn dấu trong những điểm nhấn nghệ thuật của Vinci qua đó muốn đề cao giá trị chân chính và cao quý của người phụ nữ. Đó là duy trì giống nòi sinh tồn và khẳng định Mary Magdalene trên quan điểm của lịch sử về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nhân loại trong quan hệ là vợ của Chúa Jesus.
Tags:
Religion
Giải mã hội Illuminati - Những bí mật thay đổi lịch sử nhân loại
Illuminati (Tiếng Latin Illuminati số nhiều của illuminatus, "giác ngộ, khai sáng") là tên của một số tổ chức liên hiệp bí mật có thật trong lịch sử và vẫn tồn tại bí mật cho đến hiện tại. Trong lịch sử, hội Illuminati chính thống phát sinh từ ngày 1 tháng 5 năm 1776 tại khu Bavaria vào thời kỳ Khai sáng ở châu Âu(năm 1776 cũng là năm thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kì). Hội Illuminati là động lực tạo nên phong trào Trật tự Thế giới mới
Giải mã hội Illuminati - Những bí mật làm thay đổi lịch sử nhân loại
Biểu tượng của hội Illuminati là hình con mắt ngàn năm trong tam giác quyền năng phát sáng, chính là đại diện cho sự thấu hiểu và cái nhìn thông suốt thế giới. Đó là một hình tượng mang tính chất biểu trưng cao và có tính ám thị đặc biệt. Con mắt ở đây là hình tượng con mắt của thân Horus được người Ai Cập cổ dùng nhiều trong trang trí các lăng tẩm, các chiến thuyền, các chiến xa ... nhằm xua đuổi những rủi ro, thất bại và điều xấu xa. Con mắt của Horus còn gọi Utchat/Udjat (mắt trái liên quan đến thần mặt trăng và mắt phải (Ra) liên quan đến thần mặt trời)với người Ai Cập tin rằng con mắt là biểu tượng bất tử đánh đuổi ma quỷ. Con mắt của Horus còn có nghĩa quyền lực và tái sinh. Hội Illuminati đã chọn hình tượng con mắt là có lí do rất đặc biệt con mắt là hình ảnh đại diện của uy quyền, đồng thời con mắt cũng có nghĩa là số 1 (1 = 1/2 + 1/4 + 1/8 + 1/16 + 1/32 + 1/64 : con số thần học có 6 yếu tố hợp thành nhưng cũng rất toán học của người Ai Cập cổ quy ước về tính biểu trưng con mắt thần Horus). Con mắt nằm trong hình tam giác phát sáng cũng là một biểu tượng khó luận giải mà hội tam điểm đã sử dụng. Hình tam giác là hình đại diện cho sự cân bằng và sức mạnh. Con mắt quyền năng nằm trong sự cân bằng và mang sức mạnh trường tồn cũng chính là phương châm hoạt động và phát triển của hội Illuminati: "Đó là loại bỏ ảnh hưởng của Giáo hội nhằm thiết chế một trật tự thế giới mới"
Tại sao hội Illuminati lại chọn biểu tượng con mắt trong hình tam giác là biểu tượng cho sứ mạng cách tân thế giới của mình? Đó không phải ngẫu nhiên, hội Illuminati ra đời trên cơ sở tiến bộ của khoa học nhằm chống lại các giáo điều tôn giáo cũ kỹ, lạc hậu và chứng kiến sự cách tân của khoa học kỹ thuật hiện đại. Chính vị vậy, tính đối chọi là điểm quan trọng để phân biệt giữa hội tam điểm và thế lực của Giáo hội.
Số 3: Là con số của sự thiêng liêng. Số 3 là biểu tượng của tam giác 3 cạnh, là con mắt thứ 3 của thần Silva trong đạo Hindu và cũng là con số hoàn hảo trong dãy số Fibonacci vô cùng tận của vũ trụ. Số 3 cũng đồng thời là cấp tiến của chính nó để tạo nên sự hoàn hảo 3+3=6. Số 3 được hội Illuminati dùng nhều trong thiết kế biểu tượng thiêng liêng mang tính đối ngẫu và ám thị
Các con số liên quan đến số 3: số 21 vì 7(con số của trung tâm và tinh thần)x3=21(là con số của sức mạnh, và năm thành lập hội Illuminati là 1+7+7+6=21); số 13: con số của sự đen tối, hội Illuminati dùng nhiều con số này trong việc thiết kế tờ 1 đôla Mỹ, 13 cũng là con số người đứng đầu hội Illuminati(số 13 được hội Illuminati nhắc lại trong sự kiên vào thứ 6 ngày 13 năm 1307 là ngày các Templar bị Giáo hội tiêu diệt - chú ý: 1+3+0+7=21)
Số 6: Là con số của linh hồn con người trải qua, đó cũng là sức mạnh toàn năng của thánh thần. Số 6 là con số của sự tuyệt đối hoàn hảo. Trong kinh Khải Huyền 13:18 có 666 người đàn ông và con thú bị bùa chú, 666 là con số của quỷ Satan - tuy nhiên nó cũng là con số mà hội Illuminati sử dụng để đại diện cho một thế giới mới.
Tags:
Illuminati